Phần 30
Muộn Du Bình dứt lời, cũng không thèm để ý tới thắc mắc của tôi, vội vã leo xuống dưới. Tôi thấy đã có manh mối để tìm ra chân tướng sự việc, dĩ nhiên không thể bỏ qua, vội vàng đuổi theo.
Sương mù từ dưới ao không ngừng bốc lên, tôi mới xuống được mười bậc thang đã lạc vào màn sương mù dày đặc, tầm nhìn nhanh chóng thu hẹp. Ban đầu tôi còn thấy được bóng lưng của Bàn Tử, tiến thêm vài bước thì phía trước chỉ còn thấy ánh đèn pin mờ mờ. Hơn nữa tên mập đó vốn can đảm, mỗi bước nhảy qua ba bậc thang, cuối cùng bỏ tôi lại tuốt đằng sau. Còn chưa xuống hết một vòng, luồng sáng chiếu ra từ đèn pin của hắn tôi cũng chẳng thấy đâu nữa.
Hiện tôi đang ở giữa một đám sương mù lượn lờ, tầm nhìn còn chưa nổi nửa mét. Tôi có hơi hoảng hốt, cảm giác mọi thứ xung quanh trở nên hồ thế này còn khó chịu hơn là ở trong bóng tối mịt mùng.
Khoảng cách từ mặt ao đến đáy ao cũng không lớn lắm, đi chừng một phút chợt nghe Bàn Tử nói vọng lên: “Tôi xuống đến đáy ao rồi!”
Tôi nghe thấy tiếng chân lội bì bõm của hắn, vội sải bước chạy xuống, chợt thấy dưới chân lành lạnh mới biết mình đã lội vào trong nước. Thì ra nước ở đáy ao cũng không rút đi hết, mực nước còn cao gần đến bắp chân, thảo nào lúc trước nhìn xuống tôi không thấy rõ ràng cho lắm.
Tôi quan sát xung quanh một chút, thì ra nơi đây gần như nằm giữa đám sương mù, tầm nhìn lại càng hạn chế. Tôi men theo vách ao đi được vài bước, chợt nghe Bàn Tử gọi từ phía bên trái: “Cậu chú ý bên dưới nhé, chỗ này toàn là cửa thoát nước, cẩn thận kẻo giẫm vào.”
Tôi lấy chân dò thử, quả nhiên trước sau đều có những cái hố lớn bằng miệng bát, xem ra đi đứng trong này phải hết sức cẩn thận mới được. Lúc này Bàn Tử vẫy vẫy đèn pin từ phía sau lớp sương mù ra hiệu cho tôi bám theo hắn.
Tôi gật gật đầu, lội theo sau hắn. Đi được vài bước, đột nhiên phía trước xuất hiện mấy bóng đen, không biết là thứ gì, Bàn Tử tất nhiên đã thấy từ trước nên không hề sợ hãi, dặn tôi đừng có chạm vào. Đi qua quãng đó rồi, tôi thoáng nhìn lại, thì ra là bốn con khỉ đá cao hơn nửa người ngồi trên bệ đá, mặt quay bốn phía, không biết đang cầu nguyện cái gì. Tôi biết đây gọi là Định hải thạch hầu, thường đặt dưới ao, dùng để trừ tà, thứ này xuất hiện ở đây cũng là chuyện thường.
Tôi yên tâm đi thêm vài bước, chỉ thấy ở giữa bốn con khỉ đá đặt một tấm bia đá Thanh cương cao tới hai mét. Muộn Du Bình đang chiếu đèn pin vào tấm bia, cẩn thận quan sát.
Tôi lại gần, hỏi hắn: “Thế nào, anh xem qua mấy thứ này rồi, có nhớ thêm được gì nữa không?”
Hắn chỉ chỉ tảng đá phía trước tấm bia, tôi nhìn theo, thấy bên trên có khắc mấy hàng chữ Khải nhỏ, Bàn Tử không đọc được mới quay sang hỏi tôi trên đó viết gì, tôi đáp: “Mấy hàng chữ kia cho chúng ta biết chủ nhân ngôi mộ này có xây dựng một Thiên cung, cánh cửa dẫn đến Thiên cung nằm ngay trong tấm bia đá này, nếu gặp người có duyên cánh cửa này sẽ mở ra, anh đi qua đó là lên đến trời.”
Bàn Tử nhìn tấm bia đá, sốt ruột: “Có cái cửa khỉ gió nào đâu.”
Tôi đáp: “Những lời này cũng giống như kinh Phật, mỗi người đều có cách lý giải khác nhau, ý ông ta cũng không phải là trong tấm bia này thực sự có một cánh cửa, mà có thể là nội dung khắc trên bia đá ẩn chứa bí mật nào đó.”
Bàn Tử đáp lại tôi: “Mẹ nó, cậu nói trên tấm bia này có”nội dung”ấy hả, đến một chữ tôi còn chẳng đọc nổi!”
Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy mặt ngoài tấm bia được mài đến nhẵn bóng, trông như một khối ngọc, nhưng bên trên lại trống trơn chẳng có chữ nào. Tôi cũng bắt đầu phát bực: “Trong này nói có duyên thì cửa mới mở, anh không có duyên với Thiên cung, đương nhiên không thấy gì rồi.”
Bàn Tử trề môi, thở dài rồi cúi người xuống kiểm tra phần chìm dưới nước, vừa mò mẫm vừa lẩm bẩm: “Không có duyên phận với Thiên cung cũng chẳng sao, tôi chỉ cần có duyên có phận với minh khí là được rồi.”
Tôi quay sang Muộn Du Bình, sắc mặt của hắn trông rất tệ, tôi hỏi vài câu hắn cũng chẳng thèm để ý, chỉ nhìn chằm chằm vào tấm bia giống như đang tìm kiếm thứ gì đó. Tôi cảm thấy kỳ lạ, chẳng qua chỉ là một tấm bia trống trơn mà thôi, không biết hắn tập trung nhìn vào cái gì nữa. Bỗng Bàn Tử vỗ vỗ tay, tôi nhìn sang thì thấy hắn vớt lên một cái kính lặn, nói: “Xem ra đã có nhiều người tới đây.”
Tôi qua bên đó nói với hắn: “Lúc chú Ba tôi thoát ra ngoài, trên người không có thiết bị lặn, mấy cái này có thể là của ông ấy. Anh xem thử có bình dưỡng khí không.”
Lời vừa dứt, Bàn Tử đã lôi từ dưới nước lên một cái bình khí móp méo, hắn dùng thử, dường như không được lại ném xuống nước, hậm hực nói: “Mấy thứ dưới này đều hỏng hết cả, uổng công tôi từ tuốt trên đó chạy xuống, hóa ra là mừng hụt. Tôi thấy chúng ta nên nhanh chóng đi lên thôi, ai biết được khi nào nước lại dâng lên, đợi đến lúc đó có bay cũng chẳng kịp.”
Tôi xem mực nước, thấy Bàn Tử nói cũng có lý, mới quay về chỗ cũ tìm Muộn Du Bình. Nào ngờ ngoảnh đi ngoảnh lại đã không thấy hắn đâu, tôi thử gọi vài tiếng nhưng không có ai trả lời, lòng bỗng dưng trở nên hồi hộp.
Tên nhóc này cứ thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, lúc cần thiết như bây giờ lại chẳng thấy hắn đâu.
Nghĩ đến đấy, tôi bảo Bàn Tử cứ đi tìm quanh, bởi lẽ sương mù tuy dày nhưng nơi này cũng không quá rộng. Chúng tôi đi hai vòng, cuối cùng phát hiện hắn đang ngồi trong một góc tường ao ngơ ngác nhìn về phía trước. Tôi thấy ánh mắt hắn có gì đó bất thường, gần như đã mất đi sự trầm tĩnh vốn có, chỉ còn chất chứa nỗi tuyệt vọng đến trống rỗng, thoạt nhìn trông hắn giống như một người đã chết.
Tôi vội hỏi chuyện gì đã xảy ra. Hắn ngẩng lên nhìn tôi, giọng hắn nhỏ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Chuyện hai mươi năm trước, tôi nhớ ra rồi…”
Vâng, từ chương sau trở đi sẽ là hồi tưởng của anh Bình Dầu.