Phần 33
Kỳ môn độn giáp xuất hiện từ hơn bốn ngàn sáu trăm năm trước, gần như cùng thời điểm với văn tự Trung Quốc cổ, người đầu tiên dùng thuật này chính là Hoàng Đế lão tổ, về sau truyền cho hậu thế, hầu như mỗi nhà quân sự lúc bấy giờ đều biết một chút. Tuy nhiên từ sau thời nhà Hán thuật kỳ môn độn giáp không còn giữ được nguyên bản, bởi lẽ khi tên khốn Trương Lương được Hoàng Thạch lão nhân truyền cho thuật này liền tìm cách giản lược nó đi, kết quả là người đời sau căn bản không thể hiểu được nữa.
Những kiến thức của tôi về kỳ môn độn giáp đều học từ chú Hai, không phải chú Ba, tuy hiểu biết không nhiều, nhưng ít nhất khi nghe Trương Khởi Linh nhắc đến nó tôi cũng không đến nỗi mù mờ như Bàn Tử, ngồi nghe cứ như vịt nghe sấm. Ban đầu kỳ môn độn giáp có bốn ngàn ba trăm hai mươi thế cục, đến thời Hoàng Đế chỉ thông hiểu được một ngàn không trăm tám mươi thế, truyền tới Trương Lương còn lại bảy mươi hai, hiện tại chú Hai tôi rút gọn xuống còn bốn mươi hai thế cục. Nhưng như thế đã là quý lắm rồi, bên ngoài bây giờ chỉ lưu truyền có mười tám thế mà thôi, các thế cục còn lại đều là do chú Ba tôi ngẫu nhiên tìm ra trong một ngôi mộ thời nhà Hán.
Kỳ môn độn giáp tuy rất huyền diệu, nhưng thực ra chính là lý luận về binh pháp và số mệnh, dùng nó để bày binh bố trận chẳng qua chỉ là ứng dụng một phần rất nhỏ trong đó mà thôi. Trận địa của kỳ môn độn giáp gồm tám trận, chia ra tám cửa Khai, Hưu, Sinh, Tử, Kinh, Thương, Đỗ, Cảnh, vào cửa sinh thì sống, vào cửa tử thì chết, nếu vào các cửa khác lại thấy xuất hiện tám cửa như cũ, cứ thế lặp đi lặp lại.
Trương Khởi Linh tìm được tám cửa ngầm này, tự nhiên nghĩ ngay đến kỳ môn độn giáp. Những cửa ấy vô cùng hẹp, chỉ có thể cho từng người lách mình đi qua. Nơi này sương mù dày đặc, bên ngoài lại có một cánh cửa di động một chiều, chỉ cần đẩy một phát có thể mở ra, sau khi đi vào sẽ có van tự động đóng lại, nếu không tự mình khám phá đương nhiên sẽ không phát hiện ra ở đây còn có chuyện kỳ lạ như thế.
Trương Khởi Linh vẫn có điều canh cánh trong lòng, hắn vốn không phải người thô thiển, thế nhưng vừa rồi lại quá chủ quan, cho rằng mọi kỳ môn xảo thuật đều lấy cái nhỏ, cái tinh vi làm trọng. Nhưng lần này mọi chuyện lại đảo ngược hoàn toàn, chủ mộ trọng quy mô lớn khiến hắn không lường trước được.
Hắn trở về chỗ tấm bia đá, đem những điều vừa tìm thấy kể lại. Mọi người đều ồ lên, cánh cửa này chứa đựng rất nhiều triết lý thâm sâu, bọn họ lại vừa trải qua cách mạng văn hóa, làm sao mà hiểu được? Văn Cẩm trầm tư một lát, đột nhiên lên tiếng: “Vừa rồi hành vi của Tam Tỉnh kỳ lạ như vậy, hệt như bị một nữ quỷ ám vào, liệu đó có phải chủ nhân ngôi mộ này hay không, nếu thế thì cánh cửa hắn vừa tiến vào có thể là cửa sinh chăng?”
Trương Khởi Linh nhìn thần thái rạng rỡ của cô giống như vừa phát hiện điều gì, hỏi: “Cô nghĩ ra gì vậy?”
Văn Cẩm bảo bọn họ đi theo mình đến chỗ tấm bia đá, cô bắt chước chú Ba nửa quỳ xuống, đầu hơi ngẩng lên, bắt đầu chải tóc. Cơ thể cô ấy rất đẹp, tư thế bày ra vô cùng mị hoặc, mấy anh chàng kia đều nhìn đến ngây người. Văn Cẩm chải mấy cái rồi rụt rè quay đầu lại, vừa mới cử động, đột nhiên cô run lên, hét lớn: “Tìm được rồi!”
Mọi người vội vã chạy tới đó, xem tới xem lui trên tấm bia đến nửa ngày cũng không thấy gì, Văn Cẩm nói: “Không phải, mọi người nhất định phải quỳ ở chỗ này như tôi mới thấy được!” Trương Khởi Linh như hiểu được điều gì, bắt đầu quỳ xuống, Văn Cẩm đè lên vai hắn: “Anh cao quá, cúi xuống thấp chút nữa, mắt đừng nhìn thẳng, phải nhìn nghiêng về phía thái dương ấy.”
Trương Khởi Linh thấy hơi buồn cười, cũng học theo điệu bộ của cô khi nãy, chải đầu vài phát, sau đó liếc mắt một cái vô cùng nữ tính, chợt hắn thấy nơi bóng mình phản chiếu trên tấm bia đá, ở thái dương có hình bóng mờ mờ ảo ảo của ba con cá nối đuôi nhau thành vòng tròn. Hắn giật mình, đầu hơi cử động, phát hiện chỉ cần góc nhìn lệch đi một chút, dấu hiệu đó liền biến mất.
Hắn à lên một tiếng, cuối cùng cũng hiểu được cái gì gọi là hữu duyên, lòng tức tối chửi thầm, xem ra chỉ có mấy cô nàng nghiệp dư, vô tình quỳ trước bia đá chải tóc mới có thể phát hiện ra dấu hiệu này, hơn nữa cao hơn hay thấp hơn đều không được. May mà Văn Cẩm quan sát cẩn thận, bằng không một gã đàn ông như hắn có nghĩ đến nát óc cũng không ra. (Tôi nghe xong cũng chợt bừng tỉnh, mà nói đi cũng phải nói lại, chẳng lẽ lúc sinh thời chủ mộ này chính là một tên đại sắc lang?)
Hắn tỉ mỉ quan sát hình con cá, phát hiện ấn ký đó di chuyển rất chậm, xem ra bên trong phiến đá này là một cơ quan quay cùng vận tốc với bờ ao, vị trí ấn ký này chỉ vào chính là Thiên môn. Hắn nghĩ tới đây liền bảo Văn Cẩm quan sát, còn mình thì cầm đèn pin chạy tới bên thành ao, lần lượt đứng ở vị trí các cửa ngầm, tới cửa số ba, Văn Cẩm thấy vị trí của ấn ký trùng với luồng sáng của đèn pin, hô lớn: “Là cửa này!”
Mọi người hoan hô mừng rỡ, đến cả Trương Khởi Linh cũng không kiềm được mà siết chặt nắm tay. Hắn đẩy cửa ngầm ra, nghiêng người đi vào, lối đi này cực hẹp, hướng thẳng vào bên trong. Lần này Trương Khởi Linh cực kỳ cẩn thận, đầu tiên hắn kiểm tra vách tường bốn phía, khẳng định không còn cơ quan nào nữa mới cho mọi người tiến vào.
Đường đi này cũng được xây bằng đá Thanh cương, chiều rộng chỉ đủ cho một người, cho nên đã có hai người hơi mập không thể chui lọt. Trương Khởi Linh bật đèn đi trước xem xét, thấy không gian trước mặt tối đen, hòa với màu vốn có của đá Thanh cương tạo nên cảm giác âm u tựa như màu của cõi âm phủ. Hắn tập trung chú ý, từng bước đi đều vô cùng cẩn thận, chỉ cần một tiếng động nhỏ vang lên cũng sẽ đứng lại nghe ngóng thật lâu. Nhưng lúc này hắn đã trở thành thủ lĩnh tinh thần của cả đoàn, hắn nói gì mọi người nghe theo đó, không ai nói nửa câu thừa thãi.
Bọn họ đi được nửa giờ, xung quanh tuyệt nhiên vẫn tối mịt, Trương Khởi Linh có cảm giác cả vũ trụ lúc này chỉ còn mình họ, trong lòng cũng bắt đầu thấy bức bối khó chịu. Đúng lúc này, đường đi trước mặt bắt đầu dốc lên, hắn ngẩng đầu, bất chợt phát hiện ở tít đằng xa le lói chút ánh sáng, tuy chỉ mờ nhạt như ráng chiều nhưng lại vô cùng ấm áp.
Trương Khởi Linh biết đó chính là đích đến, kêu một tiếng, bước chân gấp gáp tiến lên. Điểm sáng càng lúc càng gần, đột nhiên mặt đất dưới chân trở nên bằng phẳng, bốn phía chung quanh bỗng bừng sáng lên như bị ánh vàng bao phủ. Hắn nheo mắt lại trước ánh sáng đột ngột, vừa nhìn sơ qua đã kêu lên kinh hãi, thiếu chút nữa quỵ xuống.
Trước mắt bọn họ xuất hiện một gian phòng lớn hình vuông, không đơn thuần là rộng mà còn ẩn chứa một thứ khí phách mãnh liệt, không gian bên trong chỉ có thể hình dung bằng hai chữ choáng ngợp, khiến người ta cảm thấy xúc động đến mức muốn quỳ sụp xuống.
Mỗi cạnh của gian phòng này đều có mười cây cột gỗ lim vàng đứng ngay ngắn, ba người ôm không xuể, hệt như những cây cột chống trời nơi chân trời góc biển. Cả căn phòng tuyền một màu vàng, mỗi bên trái phải dài mười trượng, xà nhà chạm khắc tỉ mỉ, còn có mười con kim long ngũ trảo (rồng vàng năm móng), vô cùng nguy nga lộng lẫy. Trần căn phòng cao hơn mười thước, khảm năm mươi bức tinh đồ (bản đồ các ngôi sao), mỗi ngôi sao là một viên dạ minh châu, kích thước áng chừng bằng một quả trứng ngỗng, phát ra ánh sáng yếu ớt. Bốn góc phòng lại đặt bốn tấm gương lớn, ánh sáng phản xạ qua lại, tuy không sáng đến chói mắt nhưng cũng đủ chiếu sáng không gian. Nhưng thứ khiến cho bọn họ kinh ngạc nhất là một chiếc bàn đá cực lớn được đặt ở chính giữa căn phòng, Trương Khởi Linh vừa nhìn đã nhận ra, bên trên bàn đá là mô hình một cung điện nguy nga. Dù chỉ là mô hình nhưng lầu rồng điện ngọc, núi non sông nước không thiếu thứ gì, cực kỳ đồ sộ.
Trương Khởi Linh hưng phấn chạy tới, xem xét vài vòng xung quanh, nhận ra đây chính là mô hình Vân Đỉnh thiên cung. Hắn không nghĩ bên trong cổ mộ này lại có một cung điện lớn như vậy, thế nên không thấy có gì thất vọng, chỉ là tâm trí càng thêm rối bời. Xem ra Uông Tàng Hải thực sự xây nên một thiên cung, vậy thiên cung nằm ở nơi nào? Không lẽ thực sự ở trên trời?
Phát hiện này quả thực chấn động, mọi người háo hức dồn tới quan sát, mấy nam sinh còn cao hứng đỡ cả Hoắc Linh lên bàn đá. Hoắc Linh cười cười mãi mới đứng vững được, bỗng nhiên thét lên, nhảy xuống, run run nói: “Bên trên có người chết!”
Trương Khởi Linh kinh ngạc, vội vàng nhảy lên, thấy ở chính giữa mô hình là một hoa viên hình tròn bằng ngọc thạch, trên một tảng đá bên trong đó có một thây khô đã hoàn toàn co rút, quần áo trên người rách nát hết lộ ra thân thể màu đen. Đây là một tọa hóa kim thân được gió tự nhiên sấy khô, vô cùng hiếm có, chỉ cần đánh thêm chút phấn vàng là có thể đưa lên chùa làm tượng cúng bái. Thi thể này một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tóc và móng tay cũng giống những kim thân khác, sau khi chết đi vẫn không ngừng sinh trưởng, đặc biệt móng tay đã dài gần bằng ngón tay, nhìn vào có điểm không hợp lý.
Hắn nhảy tới trước mặt thi thể không chút ngại ngần, trước tiên nhìn vào miệng người chết, xác định không ngậm vật gì, sau đó sờ vào nách rồi vừa xoa vừa ấn thi thể từ trên xuống. Văn Cẩm cũng nhảy lên, thấy thế mới đến sau lưng hắn, nhẹ giọng hỏi: “Trương Khởi Linh, rốt cục lai lịch của anh như thế nào, sao lại thông thuộc chuyện đổ đấu như vậy?”
Trương Khởi Linh nhìn cô, không hề mở miệng, Văn Cẩm nổi giận, nắm lấy tay hắn nói: “Anh rõ ràng là một tay chuyên đổ đấu, nếu không khi vào trong mộ sẽ chẳng thể bình tĩnh như vậy. Anh đi theo chúng tôi, rốt cuộc có dụng ý gì?”
Trương Khởi Linh ra hiệu im lặng, đưa tay chỉ vào thi thể, nói: “Chuyện đó không quan trọng, cô xem đây!” Nói xong, hắn cởi số quần áo còn sót lại trên thi thể xuống, lộ ra một vết sẹo lớn trên bụng, kéo dài từ xương sườn cuối cùng bên trái tới tận đan điền, hắn nắn bóp bụng thi thể một lúc, rồi cầm tay Văn Cẩm đặt lên đó xoa xoa. Cô run lên, quả nhiên bên trong bụng thi thể này có giấu thứ gì đó.
Trương Khởi Linh ngẩng đầu, bây giờ hắn không chắc mình có muốn mang thứ trong bụng thi thể ra hay không. Nếu người này trước khi chết đã mang thứ đó giấu vào bụng thì chứng tỏ vật này đối với hắn vô cùng quan trọng, hoặc đây là cách khảo nghiệm của người đã chết đối với bọn họ. Nguyên tắc của Trương Khởi Linh là tuyệt đối không vì bất cứ thứ gì mà hủy hoại thi thể trong cổ mộ, hắn đấu tranh tâm lý thật lâu, lại nhìn sang Văn Cẩm. Cô là người thuộc Bắc phái, đương nhiên trọng đạo nghĩa, lắc đầu nói: “Hạ thủ bất nhân, ắt bị trời phạt.”
Trương Khởi Linh thở dài, quyết định thôi đi vậy. Hắn chầm chậm lùi về phía sau, lạy thi thể kia một lạy, đến khi ngẩng đầu lên bỗng phát hiện có chỗ không hợp lý. Nhìn trái nhìn phải một hồi, hắn chợt hít vào một ngụm khí lạnh, thì ra thi thể khô héo kia vậy mà lại đang nở một nụ cười quỷ dị.