Phần 10
Với tu vi Trúc Cơ trung kỳ của Hàn Lập, việc khởi động phù bảo có thể nhanh gấp mấy lần so với Luyện khí kỳ.
Một lát sau, phù lục màu xanh trên tay đã biến thành một cái thước ngọc màu xanh, dài khoảng vài tấc, tinh xảo lung linh, huỳnh quang lưu chuyển.
Mà lúc này pháp lực của Mông Sơn tứ hữu cũng đã tới cực hạn. Dưới những trảo đầy khí thế cực kỳ hung hãn của đại hán, Bạch Lân thuẫn như đang bị búa tạ nện, bắn ra ngoài, còn mấy người Mông Sơn tứ hữu thì cực kỳ mệt mỏi, khuôn mặt đều trở nên trắng bệch.
“Tiền bối, nhanh lên!”
Lão giả mặt đen thấy phù bảo của Hàn Lập xuất hiện dị tượng, không khỏi lo lắng, liên tục thúc dục.
Hàn Lập không có thời gian để ý tới lão, mà ngay khi đại hán yêu hóa bị cột sáng đánh lui, liền lập tức cuồn cuộn truyền linh lực toàn thân vào thước ngọc.
Trong phút chốc, chiếc thước nhỏ lơ lửng trên tay phát ra hào quang màu xanh chói mắt, trong khoảnh khắc chia ra thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám… Chỉ trong chớp mắt đã hóa thành mấy trăm cái thước nhỏ giống nhau, đều phát ra tiếng gầm rú vây quanh Hàn Lập, không ngừng dao động.
Cảnh tượng kinh người này làm Mông Sơn tứ hữu nhìn thấy há mồm cứng lưỡi, nghĩ rằng đó là ảo thuật, dường như không dám tin vào mắt mình.
Hàn Lập không chút trì hoãn, sắc mặt đầy cẩn trọng chỉ tay về phía đại hán yêu hóa. Nhất thời, đàn đàn lũ lũ thước nhỏ kia như nước cuốn vỡ đê, cuồn cuộn kích tới.
Đại hán đầu bóng lưỡng mặc dù sau khi yêu hóa thì thần trí có chút không tỉnh táo, nhưng đối mặt với phù bảo công kích của Hàn Lập, dường như ý thức được sự bất ổn, mặt lộ vẻ sợ hãi, đột nhiên hồng quang hiện ra, toàn thân bắn về phía sau nhanh như sao xẹt, tốc độ cực kỳ mau chóng, không thua kém gì Thần Phong Chu.
Hàn Lập thấy vậy rùng mình, hơi chần chừ một chút, đối phương đã bỏ chạy cách xa cả trăm trượng, chỉ có thể thấy bóng dáng hắn đang chạy trốn.
Hít một hơi, Hàn Lập không truy đuổi mà chỉ tay một cái, triệu phù bảo thước ngọc về, lại trở thành phù lục màu xanh, nhẹ nhàng rơi xuống tay.
Không phải là hắn không muốn trừ hậu hoạn, nhưng uy lực còn lại của phù bảo thước ngọc này thực sự không còn nhiều lắm. Nếu dây dưa truy đuổi đối phương trong thời gian dài, Hàn Lập cũng không biết nó có chịu nổi nữa không. Mà nhân chứng sống đã tóm được trong tay, thế là ổn lắm rồi.
Mông Sơn tứ hữu thấy kình địch bị Hàn Lập dọa sợ chạy mất, trong lòng đều mừng rỡ, kéo nhau đứng dậy.
Hàn Lập thấy sắc mặt mọi người thực sự bất ổn, suy nghĩ một chút liền lấy từ trong túi trữ vật ra một bình thuốc nhỏ, ném cho mấy người.
“Mỗi người ăn một viên, sẽ rất có ích cho thương thế của các ngươi.” Hàn Lập nhẹ nhàng cười nói.
Dù có nói thế nào thì những người này hôm nay đúng là cũng đã chiến đấu vất vả trợ giúp mình, hắn đương nhiên phải thể hiện rằng mình không phải là kẻ không biết điều.
Quả nhiên Mông Sơn tứ hữu đều lộ vẻ cảm kích. Lão giả mặt đen cung kính nhận lấy chiếc bình nhỏ, dốc ra bốn viên thuốc lớn cỡ mắt rồng, màu đỏ như lửa, hương thơm xộc vào mũi, chỉ vừa ngửi một chút đã cảm thấy tinh thần phấn chấn.
Lão giả là người kinh nghiệm, lập tức kinh hỉ, biết đây là loại thuốc cực kỳ trân quý, liên tục hướng Hàn Lập tạ ơn, sau đó mới cùng mấy người kia uống thuốc.
Viên thuốc vừa vào bụng liền biến thành một luồng khí nóng truyền tới khắp thân thể, khiến cho mọi người lập tức thấy thương thế trên người đỡ hẳn, trong lòng cực kỳ vui mừng.
“Chúng ta đi thôi! Nơi này không thể ở lâu. Viện binh của Hắc Sát giáo mà đến thì rất phiền toái.” Hàn Lập liếc nhìn tiểu Vương tử và Vương tổng quản, trầm giọng nói.
Mông Sơn tứ hữu đương nhiên không có ý kiến gì khác, vì vậy ném một tù binh lên Thần Phong Chu, Hàn Lập mang theo kẻ còn lại, ngự chu nhanh chóng bay đi.
Bầu trời trên miếu hoang lại trở nên tĩnh lặng, không ai có thể nhận ra nơi đây vừa phát sinh một trận đại chiến giữa những người tu tiên.
Mấy người Hàn Lập bình an vô sự trở về Tần trạch, trực tiếp từ trên không hạ xuống.
Vì sợ đêm dài lắm mộng, Hàn Lập bất kể giờ giấc, ngay trong đêm đó bắt đầu thẩm vấn tiểu vương gia hai người.
Hàn Lập định thẩm vấn Tiểu vương gia, còn Vương tổng quản thì giao cho Mông Sơn tứ hữu xử lý, tin tưởng rằng sự khắc nghiệt của lão giả mặt đen sẽ cho hắn một đáp án vừa lòng.
Bắt một người tu tiên mở miệng nói ra sự thật có lẽ là việc phiền toái đối với nhiều người, nhưng đối với kẻ tinh thông mê hồn pháp thuật và dược vật như Hàn Lập mà nói thì căn bản chẳng thành vấn đề. Đặc biệt, tu vi của đối phương lại kém xa hắn.
Mặc dù vị Tiểu vương gia này ngay từ đầu đã tỏ vẻ tuyệt đối không mở miệng, nhưng khi Hàn Lập hỏi vài câu, thấy đối phương cự tuyệt không chịu hợp tác, liền không khách khí tặng cho hắn một bình thuốc. Kết quả là hắn thần trí mơ mơ hồ hồ, rơi vào huyễn hoặc.
Sau đó, Hàn Lập lại dùng Mê hồn Huyễn sắc nhãn, rất thuận lợi nắm được tâm thần của hắn, biến hắn thành một con rối, ngoan ngoãn trả lời hết thảy.
Nghe Tiểu vương gia kể lại, vẻ mặt của Hàn Lập biến đổi liên tục, lúc đầu thì nghiêm trọng lạnh lùng, tiếp đó là ngạc nhiên, cuối cùng là vẻ khó xử lẫn buồn bực.
Sau khi xác nhận rằng mọi bí mật trong lòng Tiểu vương gia đã lộ hết, Hàn Lập trầm ngâm lấy trong áo ra một viên thuốc màu đen đã chuẩn bị từ trước, nhét vào miệng hắn, sau đó không thèm liếc mắt, đi về phía Thanh Âm Viện nơi Mông Sơn tứ hữu đang thẩm vấn.
Viên “Đoạn hồn đan” này có thể khiến người uống chết một cách vô thanh vô tức.
Mặc dù dùng độc giết chết một người không hề có phản kháng khiến trong lòng Hàn Lập có chút không thoải mái nhưng căn cứ theo ma công mà Tiểu vương gia tu luyện, đã dùng mấy mươi tên tu sĩ để huyết tế thì hắn chết cũng không tính là oan uổng.
Khi tới Thanh Âm Viện, đúng lúc Mông Sơn tứ hữu đang đứng thương lượng chuyện gì đó cùng nhau, vẻ mặt trầm trọng. Gặp Hàn Lập đi đến, mấy người đều tiến tới nghênh đón hắn lên ghế chủ tọa.
Hàn Lập không từ chối, ngồi xuống, nói:
“Thế nào, vị Vương tổng quản có tin tức gì không?”
Mông Sơn tứ hữu liếc mắt nhìn nhau, đại ca của cả hội là lão giả mặt đen đứng lên trả lời:
“Tiền bối có thể cũng đã biết, nếu những gì chúng ta bên này thu được là không sai thì sự tình chỉ sợ có chút phức tạp rồi.”
Nói xong, lão giả liếc trộm Hàn Lập một cái, nhưng chỉ thấy sắc mặt hắn vẫn như thường, không hề tỏ vẻ gì.
Lão giả đành cân nhắc một chút, rồi nói tiếp:
“Từ trong miệng của Vương tổng quản, tại hạ biết được rất nhiều tin tức liên quan tới Hắc Sát giáo, nhưng đều không có tin gì khẩn yếu mà chỉ có một chuyện rất quan trọng. Vị Hắc Sát Giáo chủ không ngờ lại đang trốn ở hoàng thành đại nội, hơn nữa đương kim hoàng đế phàm nhân của Việt quốc sớm đã bị thao túng, trở thành con rối trong tay hắn. Giờ đây, hoàng cung chính là hang ổ của Hắc Sát giáo. Còn đại nội tổng quản của hoàng cung, một vị thái giám tên là Lý Phá Vân chính là Hắc Sát giáo chủ, nghe nói đang bế quan tu luyện.”
Lão giả mặt đen vừa nói vừa nhíu mày, cảm thấy thực sự không đơn giản. Mặc dù người tu tiên vẫn coi thường phàm nhân, nhưng vẫn có chút kiêng kị đối với người thống trị tối cao của thế giới phàm nhân.
Hàn Lập nghe nói vậy, vẻ mặt cũng không có gì thay đổi, nhưng trong lòng không ngừng thở dài.
Hắn không phải là sợ hãi hoàng đế mà biết rõ rằng hoàng thất đương thời của Việt quốc trên thực tế là do cả bảy phái cùng ủng hộ.
Nhưng cũng vì thế mà các phái đều có quy định bất thành văn: Nghiêm cấm đệ tử bảy phái bước vào hoàng thành nửa bước, phòng khi có một phái ỷ thế cầm tù hoàng thất rồi tạo thành bất lợi đối với các phái còn lại.
Vì vậy mà cả mấy trăm năm nay, trong hoàng thành Việt quốc không hề có bóng dáng của bất cứ đệ tử nào của bảy phái. Chỉ cần hoàng đế Việt quốc không có sai sót gì đối với bảy phái thì bảy phái sẽ hoàn toàn để hắn tự do hành động. Có lẽ chính vì vậy mới để cho Hắc Sát giáo thừa cơ hành động.
Hàn Lập sau khi cân nhắc những điều thu được từ trong miệng Tiểu vương gia, suy đi tính lại vài lần nhưng đều không quyết định được nên làm thế nào cho tốt.
Quy định này đã kéo dài lâu như vậy, cho dù mình có thể lật tẩy được bộ mặt thực của Hắc Sát giáo chủ, nhưng việc xâm nhập hoàng thành thì ai mà biết có thể lấy công chuộc tội được hay không? Nói không chừng, ngược lại còn phải chịu phạt nặng.
Sự việc phải trái trắng đen không rõ ràng này quả thực khiến hắn rất đau đầu. Xa rời khỏi bảy đại phái lâu như vậy, điều gì cũng có thể xảy ra.
Đôi khi quyền uy của phong tục còn vượt xa sự tình đúng sai, căn bản không thể xâm phạm chút nào. Điều này khiến Hàn Lập cực kỳ kiêng kị.
Hắn cũng không muốn làm một kẻ phí công mà lại không được lòng người.
Chỉ có điều, vừa mới hỏi cung đơn giản một chút mà đã biết được thân phân thực sự của Hắc Sát giáo chủ, quả thực là ngoài dự kiến của Hàn Lập.
Chẳng qua điều này cũng là cơ duyên trùng hợp. Từ miệng của Tiểu vương gia, hắn biết rằng cho dù là mấy vị đàn chủ Trúc Cơ kỳ của Hắc Sát giáo cũng chưa từng thấy mặt Giáo chủ, càng không thể biết chút nào về lai lịch.
Vậy mà hai người bọn chúng lại biết được thân phận của Giáo chủ Hắc Sát giáo. Tất cả điều này là bởi vì Vương tổng quản và Tiểu vương gia hai người đều có quan hệ rất không bình thường với Hắc Sát giáo chủ.
Một người có ơn cứu mạng với một vị đường huynh của Hắc Sát giáo chủ. Người còn lại là ký danh đệ tử duy nhất, cực kỳ được yêu quý và tin tưởng. Quan hệ thân cận như thế, bọn họ mới có thể biết được thân phận thực sự.
Nếu không, kinh thành Việt quốc lớn như vậy làm sao tới lượt họ là hai giáo chúng chỉ mới tới Luyện Khí kỳ lại có thể chủ trì giáo vụ ở đây.